Quả chà là khô của Mỹ được đóng hộp đẹp nặng 454gr/ 1 hộp, thích hợp cho việc ăn hoặc đi biếu.
Tác dụng của quả chà là:
Chà là: Là nguồn cung cấp năng lượng, bồi bổ sức khỏe, giúp tinh thần tỉnh táo, chống stress và suy nhược.
Chà là chứa nhiều vitamin và khóang chất. Chúng giàu chất xơ, chất béo và chất đạm. Chúng cũng chứa natri, ka li, canxi, magiê, sắt, lưu huỳnh, phospho và clorua cũng như vitamin A, beta-carotene, B1, B2, B3 và B6. Một số lợi ích của vitamin và khóang chất trong chà là tới cơ thể người bình thường và đặc biệt trong thời kỳ thai nghén có thể được tổng kết như sau:
Giá trị dinh dưỡng của chà là bắt nguồn từ cân bằng khóang chất thích hợp. Chà là cũng chứa acid folic, một loại vitamin B rất quan trọng đối với phụ nữ mang bầu. Acid Folic (B9) là một vitamin phục vụ các chức năng quan trọng trong quá trình tạo tế bào máu mới, acid amin, các khối xây dựng cơ thể và thay mới tế bào. Nhu cầu acid folic tăng đáng kể trong quá trình mang thai và gấp đôi nhu cầu hàng ngày. Khi thiếu acid folic, hồng cầu cao hơn bình thường nhưng ít chức năng hơn, cùng theo đó là các triệu chứng thiếu máu. Acid folic đóng vai trò quan trọng đặc biệt trong phân chia tế bào và hình thành cấu trúc gen của tế bào và là chất duy nhất trong quá trình mang thai tăng gấp đôi nhu cầu so với bình thường. Quả chà là cực kỳ giàu acid folic.
Mặt khác, sự nôn mửa lâu dài và các phản ứng của cơ thể xuất hiện trong khi mang thai là do thiếu ka li. Do vậy mức kali cần được tăng lên. Lượng kali lớn trong quả chà là là nguồn rất quan trọng bổ sung chất này, chúng cũng quan trọng trong điều hòa cân bằng nước trong cơ thể. Ngoài ra, ka li có thể giúp chúng ta suy nghĩ rõ ràng do kali giúp oxy lên não. Thêm vào đó, nó cung cấp các đặc trưng ancaloit thích hợp cho dịch của cơ thể và kích thích thận thải chất cặn bã. Nó giúp làm hạ huyết áp và hình thành lớp da khỏe mạnh.
Sắt chứa trong chà là kiểm soát sự tổng hợp hemoglobin trong hồng cầu và đảm bảo mức hồng cầu trong máu phù hợp. Đây là chất tối quan trọng trong việc tránh bệnh thiếu máu trong thai kỳ và sự phát triển của trẻ sơ sinh. Hồng cầu đóng vai trò quan trọng trong việc giữ cho các tế bào sống bằng cách vận chuyển oxy và carbonic trong máu. Do lượng sắt trong chà là cao, con người có thể đạt nhu cầu về sắt bằng cách ăn 15 quả chà là một ngày và sẽ tránh khỏi các bệnh do thiếu sắt.
Canxi và phospho trong chà là là các nguyên tố quan trọng cho sự phát triển của xương và cân bằng cấu trúc xương cơ thể. Lượng phospho và canxi cao trong chà là bảo vệ cơ thể khỏi yếu xương và giảm các bệnh như vậy.
Các nhà khoa học cũng nhấn mạnh cơ chế mà chà là giảm stress và căng thẳng. Nghiên cứu của các chuyên gia trường đại học Berkeley cho thấy chà là chứa nhiều vitamin B6 làm tăng cường hệ thần kinh và magiê rất quan trọng với thận. Một người có thể thỏa mãn nhu cầu magiê bằng cách ăn 2-3 quả chà là một ngày.
Vitamin B1 trong chà là tạo điều kiện thuận lợi cho hệ thần kinh khỏe mạnh, giúp cho sự chuyển hóa carbohydrate trong cơ thể sang năng lượng và sử dụng protein và chất béo để thỏa mãn nhu cầu cơ thể. Vitamin B2 giúp đốt cháy protein, carbohydrate và chất béo để cung cấp năng lượng cho cơ thể và thay mới tế bào.
Nhu cầu vitamin A cho cơ thể tăng lên trong thai kỳ. Nhờ có vitamin A chứa trong đó, chà là cải thiện sức đề kháng của thị lực và của cơ thể, củng cố răng và xương. Chà là cũng rất giàu beta-carotene. Beta-carotene giúp ngăn ngừa ung thư bằng cách kiểm soát các phân tử tấn công tế bào.
Thêm vào đó, không như chà là, các trái cây khác thường thiếu protein. Nhờ vào đặc trưng này, chà là làm cho cơ thể tự bảo vệ khỏi bệnh tật, nhiễm trùng, để làm mới tế bào và đảm bảo cân bằng dịch. Thịt cũng là một thực phẩm hữu ích nhưng có thể không tốt bằng chà là, là loại quả tươi. Thực sự việc ăn quá nhiều thịt trong khi mang thai có thể dẫn tới độc tố cho cơ thể. Tốt hơn phụ nữ mang thai nên chọn trái cây và rau là những đồ ăn nhẹ và dễ tiêu hóa.
Tất cả các đặc trưng này của chà là cho thấy kiến thức vô tận của Allah và lòng thương của Ngài tới loài người. Như chúng ta đã thấy, ích lợi của chà là, đặc biệt trong thai kỳ đã được phán trong Qur’an nhiều năm qua nhưng chỉ mới đây thôi, nền y học hiện đại mới khám phá ra.